Rồng Việt Nam với truyền thuyết “con rồng, cháu tiên” luôn là một biểu tượng thiêng liêng từ xưa đến nay không chỉ của riêng người Việt mà còn với cả các nền văn hoá phương Đông. Con rồng là biểu tượng của sự cao quý, sức mạnh hô mưa gọi gió và sức sống vĩnh hằng.
Sơ lược về lịch sử của Rồng Việt Nam
Từ thời xa xưa con Rồng đã xuất hiện trong tâm thức của người Việt và tồn tại đến tận ngày nay với nhiều truyền thuyết linh thiêng và huyền thoại. Rồng là mang ý nghĩa vũ trụ và nhân sinh, là biểu tượng linh thiêng trong tín ngưỡng văn hoá dân gian. Rồng cũng được sáng tạo thành một hình tượng nghệ thuật và có mặt trong nghệ thuật truyền thống của các vương triều tự chủ thời xưa.
Người Việt xưa sống tập trung tại vùng sông nước nên bên cạnh các loài chim, từ xưa ông cha ta đã tôn sùng cá sấu như một con vật linh đại diện cho sức mạnh và sự trù phú, ở thời kỳ này vùng đất người Việt sinh sống vẫn còn rất nhiều cá sấu. Rồng chính là hình tượng thần thánh hóa lên của cá sấu, là một cách thức tô điểm thêm nhiều chi tiết tưởng tượng nhằm mang lại nhiều ý nghĩa cho hình hài con cá sấu hơn. Hình tượng con Rồng tồn tại cùng tâm thức của người Việt ta trong suốt thời Văn Lang – Âu Lạc. Rất có thể từ hình tượng con Rồng này mà người Trung Hoa đã vay mượn để tạo ra con rồng Trung Hoa của họ. Tuy nhiên, Rồng Việt Nam luôn có những đặc điểm khác biệt so với các nước châu Á khác.
Hình ảnh con Rồng Việt Nam vẫn giữ bản sắc riêng và mang giá trị phổ cập chứ không dành riêng cho giai cấp thống trị, quyền lực như ở Trung Quốc, người dân vẫn có thể dùng hình ảnh con rồng để trang trí. Đến khi đã giành được độc lập, hình tượng con Rồng không chỉ được sáng tạo mang tính ứng dụng để trang trí trong Hoàng cung hay các ngôi chùa mà nó còn có giá trị cái đẹp tạo hình.
Về cơ bản, rồng Việt Nam có những đặc điểm như: có thân hình giống của loài rắn, uốn lượn hình sin 12 khúc có ý nghĩa 12 tháng trong năm; có vảy nhỏ trên lưng giống như vảy cá chép. Đầu rồng không có sừng mà có bờm dài như của loài sư tử, có râu cằm. Mắt rồng lồi to, hàm mở rộng và có răng nanh; đây chính là đặc điểm phân biệt với con rồng của những nước khác. Đặc biệt nhất là cái mào ở mũi: gợn sóng đều đặn chứ không phải là mũi thú như rồng Trung Quốc; lưỡi rồng rất dài và mảnh. Rồng còn có gan bàn chân của hổ, bụng sò và vuốt của chim ưng tượng trưng cho sức mạnh vĩnh hằng và quyền lực.
Miệng rồng ngậm một viên ngọc biểu tượng cho sự nhân văn, tri thức và lòng cao thượng. Đầu rồng hướng lên thể hiện tinh thần tôn trọng các giá trị nhân văn cao quý, sự uyên bác và tinh thần cao thượng. Hình tượng Rồng phát triển ở các vương triều, mỗi thời đều có đặc điểm phong cách đặc trưng phù hợp với yêu cầu của từng thời điểm lịch sử xã hội riêng.
Rồng Việt Nam qua các thời kỳ
Rồng thời nhà Lý
Hình tượng rồng thời Lý còn lại ở các công trình kiến trúc đến ngày nay không nhiều, thường xuất hiện ở các chùa như chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa Long Đội, chùa Chương Sơn, chùa Linh Xứng, chùa Quỳnh Lâm,…Hình tượng rồng thời Lý cũng được tìm thấy ở Hoàng thành Thăng Long trên gốm thời đầu lập đô nhà Lý.
Rồng thời Lý có thân tròn lẳn, khá dài và không có vẩy, thân rồng uốn khúc mềm mại và thon dài từ đầu đến chân mang lại cảm giác nhẹ nhàng và thanh thoát. Đầu rồng thường ngẩng lên, miệng há to, mép trên của miệng rồng không có mũi, kéo dài ra thành một cái vòi uốn, vươn lên cao, vuốt nhỏ dần về cuối. Rồng có một chiếc răng nanh uốn cong mọc ra từ cuối hàm trên và vắt qua vòi mép ở trên, có trường hợp răng nanh rất dài, uốn lượn để vươn lên hoặc bao lấy viên ngọc.
Thân rồng dài, có một hàng vảy thấp tỉa riêng từng cái ở dọc sống lưng. Bụng rồng có đốt ngắn như bụng rắn, thân uốn 5 khúc, có 4 chân, mỗi chân 3 ngón trước và không có ngón chân sau. Chân rồng bao giờ cũng đặt ở một cvị trí nhất định, có khuỷu phía sau và móng giống loài chim.
Thời Lý là thời kỳ mới giành lại được độc lập sau hơn nghìn năm Bắc thuộc nên các nghệ nhân có ý muốn tạo ra hình tượng rồng Việt Nam khác biệt với hình tượng rồng của Trung Hoa. Tuy nhiên, khá nhiều người cho rằng rồng thời Lý có hình dạng giống một con rắn vậy nên rồng thời Lý còn có những tên gọi như “long xà” hay “rồng rắn”.
Rồng thời nhà Trần
Sang đến đời nhà Trần thì hình tượng con rồng đã có nhiều biến đổi và không còn mang nặng ý nghĩa mơ ước so với thời Lý nữa. Hình chữ “S” dần dần được thay đổi, đồng thời xuất hiện thêm chi tiết cặp sừng và đôi tay thể hiện những tư thế tự do hơn, dáng hình rồng cũng thô hơn. Rồng thời này uốn lượn khá thoải mái, động tác dứt khoát và mạnh mẽ, không chịu những quy định khắt khe trong cách thể hiện như ở thời Lý.
Vảy lưng rồng không tựa đầu vào nhau như ở thời Lý nhưng vẫn liền mạch và riêng biệt từng chiếc, có hình răng cưa nhọn hoặc từng chiếc vảy chia thành hai tầng. Đầu rồng cũng được lược bớt đi một số chi tiết phức tạp so với rồng thời Lý. Chân ngắn hơn và những túm lông ở khuỷu chân rồng không bay ra theo một chiều nhất định như ở thời Lý mà bay lên phía trước hoặc sau phụ thuộc vào khoảng trống trên bức phù điêu. Mình rồng thời Trần uốn 7 khúc; chân có 5 móng; đầu rồng có thêm sừng và mắt lồi ra thể hiện cho tầm mắt nhìn bao quát bốn cõi. Miệng rồng há to và nhe răng nhanh thể hiện sự đe dọa nhưng nhiều khi không ngậm viên châu. Thân rồng mập chắc, có tư thế vươn về phía trước.
Rồng thời nhà Lê
Đến thời Lê Sơ thì hình tượng rồng đã có sự thay đổi hẳn, không nhất thiết phải là một con vật có mình dài uốn lượn đều đặn nữa mà có nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng thời Lê to, có bờm lớn ngược ra sau, mất hẳn mào lửa và thay vào là một chiếc mũi to. Mép trên của miệng vẫn kéo dài nhưng được vuốt gần như thẳng ra, bao quanh là một hàng răng cưa xếp lại như hình chiếc lá.
Răng nanh rồng thời Lê cũng được kéo dài lên phía trên, ở gốc uốn xoăn thừng. Lông rồng kéo dài ra và đuôi chếch lên phía sau. Đầu sừng hai chạc cuộn tròn lại phía trên lông mày. Rồng thời Lê có râu ngắn bố trí đều và một chân trước thường đưa lên để đỡ râu, đây cũng là tư thế thường thấy ở các con rồng đời sau. Cổ rồng nhỏ hơn thân, đây là một hiện tượng ít thấy ở những con rồng các thời trước đó. Có nhiều con rồng thời Hậu Lê còn có hình dáng uể oải như đang buồn ngủ, cũng là dấu hiệu của thời đại vua Lê bị chúa Trịnh đàn áp.
Quan niệm “Tứ linh” (Long, Lân, Quy, Phụng) cũng được bắt đầu từ thời đại này tượng trưng cho sự uy quyền của vương triều: Rồng đứng đầu, Lân tượng trưng cho sự thái bình, Quy tượng trưng cho sự bền vững xã tắc và Phụng tượng trưng cho một triều đại thịnh vượng.
Rồng thời nhà Nguyễn
Rồng thời Nguyễn lại được trở lại với vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh linh thiêng. Rồng được các nghệ nhân thể hiện ở nhiều tư thế như ẩn mình trong mây hoặc ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, hoa cúc hay chữ thọ… Phần lớn mình rồng thời Nguyễn không dài mà uốn lượn với độ cong lớn. Đầu rồng khá to, sừng chĩa ngược ra sau và giống sừng hươu. Mắt rồng to, mũi của sư tử và miệng há lộ răng nanh. Vây trên lưng rồng sắp xếp dài ngắn đều đặn và có tia. Râu rồng lượn sóng từ dưới mắt và chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng khi dùng cho vua thì chân có năm móng mạnh mẽ, còn quan lại và tầng lớp quý tộc chỉ được dùng hình tượng rồng bốn hoặc ba móng, đuôi không có bờm lông, các chi tiết hoa văn cũng mờ hơn so với rồng trong cung đình.
Kể từ sau sự kết thúc của triều Nguyễn, sự phân tầng giai cấp xã hội trong quy cách sử dụng hình ảnh rồng không còn nữa, chính vì thế người ta có thể thoải mái chạm khắc rồng với muôn hình vạn trạng khác nhau và được dân gian đưa vào trang trí các công trình kiến trúc, hội họa, chạm khắc nghệ thuật mang ý nghĩa dân gian, bình dị.
Tuy rằng hình tượng con rồng cũng không còn mang tính chất thiêng liêng và tối thượng như xưa nhưng Rồng Việt Nam bất kể thời điểm nào vẫn là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hoá của người Việt.
Ý kiến bạn đọc (0)